Tuyết Cổ Tích Kể Chuyện Truyền Thuyết Thánh Gióng Mầm Non

Tuyết Cổ Tích Kể Chuyện Truyền Thuyết Thánh Gióng Mầm Non

ISO9001:2015,ISO14001:2015,ISO27001:2013

ISO9001:2015,ISO14001:2015,ISO27001:2013

Gần một tháng thử nghiệm, khoảng 2.000 du khách sử dụng

Sản phẩm thuyết minh đa ngôn ngữ là chương trình hợp tác giữa đơn vị và Công ty Vietsoftpro, được đưa vào thử nghiệm vừa qua. Đây là sản phẩm chuyển đổi số sử dụng công nghệ để cung cấp thông tin đến du khách tham quan tại di tích Mỹ Sơn.

Tại các bảo tàng, di tích nổi tiếng trên thế giới hầu hết đều sử dụng công nghệ Audio Guide thay cho hướng dẫn viên, như Bảo tàng Louvre (Pháp), Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan (Mỹ), Bảo tàng Quốc gia London (Anh)…

Riêng tại Việt Nam, xu hướng áp dụng công nghệ Audio Guide vào bảo tàng và di tích bước đầu đã đem lại nhiều hiệu quả tích cực.

Và sau gần một tháng thử nghiệm, khoảng 2.000 du khách sử dụng sản phẩm này trong việc hỗ trợ tìm hiểu thông tin về Mỹ Sơn. Sản phẩm có những ưu điểm vượt trội như: Khách tham quan chủ động nghe các bài thuyết minh theo ý thích của mình; hỗ trợ thuyết minh nhiều ngôn ngữ đối với nhiều thành phần khách; du khách có thể chủ động nghe lại nhiều lần, đồng thời sau thời gian sử dụng, những nội dung thuyết minh sẽ tiếp tục được điều chỉnh phù hợp do tính năng dễ dàng cập nhật thêm nội dung mới.

Mỗi du khách đến với Thánh địa Mỹ Sơn, thay vì thuê hướng dẫn viên thuyết minh, khách có thể mua vé thuyết minh tự động (50.000 đồng) tại quầy vé và cài đặt ở ứng dụng "Di tích Mỹ Sơn" trên App Store hoặc CH Play.

Du khách trải nghiệm với sản phẩm thuyết minh đa ngôn ngữ

Tại đây, du khách nhập mã vé hoặc quét mã QR code. Sau đó 40 câu chuyện với 6 ngôn ngữ khác nhau như: Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Pháp, Anh được hiển thị. Khách du lịch có thể nghe toàn bộ 40 câu chuyện này tương ứng với 40 điểm tham quan chính tại Thánh địa Mỹ Sơn trên chiếc điện thoại của mình. Thời gian vé có hiệu lực là 8 tiếng.

Bên cạnh việc mua vé thuyết minh tự động bằng điện thoại, du khách có thể chọn thuyết minh tự động bằng headphone được cài sẵn.

Theo BQL Di sản văn hóa Mỹ Sơn, sản phẩm này rất phù hợp và hiệu quả khi áp dụng tại các Khu đền tháp Mỹ Sơn; ngoài ra, giúp BQL quản lý được nội dung thuyết minh dễ dàng, cũng như giúp du khách được nghe thuyết minh rõ ràng mà không chịu ảnh hưởng môi trường xung quanh trong những thời điểm đông người tập trung tham quan.

Lần đầu tiên được trực tiếp trải nghiệm sản phẩm thuyết minh đa ngôn ngữ, chị Zoe (du khách Pháp) tỏ ra thích thú khi mọi thông tin tại Thánh địa Mỹ Sơn đều được giải thích cụ thể bằng chính tiếng Pháp.

"Đây là một điều tôi thấy rất đặc biệt so với các di tích khác của Việt Nam tôi đã từng đến. Thay vì nhờ các hướng dẫn viên giới thiệu, thông tin về Thánh địa Mỹ Sơn thì việc sử dụng sản phẩm thuyết minh đa ngôn ngữ rồi nghe trên chính điện thoại của mình thì hiệu quả hơn nhiều", chị Zoe nói.

Du khách nước ngoài thích thú khi trải nghiệm sản phẩm du lịch mới

Ông Phan Hộ, Giám đốc BQL Di sản văn hóa Mỹ Sơn, cho biết chuyển đổi số là xu hướng tất yếu hiện nay và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Trong lĩnh vực bảo tồn và phát huy di sản, chuyển đổi số sẽ đem lại những thay đổi tích cực trong việc giải mã những giá trị hiện vật, góp phần quảng bá di sản văn hoá đến với công chúng.

Những năm qua, BQL Di sản văn hóa Mỹ Sơn đã đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, nguồn lực, đẩy mạnh hợp tác ứng dụng chuyển đổi số vào hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản Mỹ Sơn.

Du khách thích thú khi nghe kể chuyện về Thánh địa Mỹ Sơn bằng chính chiếc điện thoại của mình

Theo ông Hộ, sản phẩm thuyết minh đa ngôn ngữ đem lại những tiện ích to lớn. Khi đưa sản phẩm này phát triển với công nghệ kỹ thuật được chọn lọc, tiên tiến thì kho tàng thông tin hiện vật tại Mỹ Sơn được mở ra, dẫn dắt những câu chuyện lịch sử chỉ bằng một cú "click chuột", sẽ chạm đến với Mỹ Sơn. Đây được xem là sản phẩm tiêu biểu, biểu tượng cho công tác chuyển đổi số thành công trên lĩnh vực du lịch tại đơn vị.

"Sản phẩm thuyết minh đa ngôn ngữ đưa vào khai trương lần này ở Di sản Mỹ Sơn là gợi mở hiệu quả nhất để Mỹ Sơn phát triển bền vững", ông Hộ khẳng định.

Cơ quan của Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam

Giấy phép số 77/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin Điện tử, ngày 30/6/2016

Văn phòng TP. Hà Nội: 64 Bà Triệu, Hoàn Kiếm, Hà Nội

Văn phòng TP.Hồ Chí Minh: Tầng 2, 145 Pasteur, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh.

Điện thoại: 023 62782663. Email: [email protected]

Tên thật là Bùi Thị Tuyết Mai dân tộc Mường, sinh năm 1971, tại Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình.

Thạc sĩ Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Bùi Thị Tuyết Mai có thời gian học trường cấp 3 Chu Văn An ở Hà Nội.

Sau khi tốt nghiệp Trung học phổ thông, Bùi Thị Tuyết Mai theo học Trường Cao đẳng Sư Phạm Thường Tín thuộc Hà Sơn Bình cũ. Trong thời gian này, Bùi Thị Tuyết Mai bắt đầu làm thơ, bài thơ đầu tiên ra đời Tâm tình người thiếu nữ, ghi lại nỗi nhớ nhà, nhớ mẹ khi đi học ở nơi xa.

Năm 1991, tốt nghiệp Sư phạm, Bùi Thị Tuyết Mai được phân công về Trường Đảng tỉnh Hòa Bình, sau đổi tên thành Trường Chính trị tỉnh Hòa Bình. Trong thời gian này do yêu cầu công tác Bùi Thị Tuyết Mai phải đi đó, đi đây vùng sâu hẻo lánh, được nhìn xa thấy rộng, hồn thơ thúc bách ghi chép sáng tác thơ, kết quả là được kết nạp vào Hội Văn học Nghệ thuật Hòa Bình và Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam.

Đến năm 1998, tập thơ đầu tay Mưa trong nhà của Bùi Tuyết Mai mới ra đời.

Sau đó, Bùi Thị Tuyết Mai bảo vệ thành công luận văn, có bằng Thạc sĩ Kinh tế rồi chuyển công tác về Hà Nội, làm ở Cơ quan Đảng uỷ Khối các Cơ quan Trung ương.

Nhà thơ Bùi Tuyết Mai được các giải thưởng:

- Giải B của Hội VHNTCDTTSVN, với tác phẩm Mưa trong nhà

- Giải C của UBND tỉnh Hòa Bình tặng năm 2001, với tác phẩm Trầu đỏ môi ai.

- Giải C của Hội VHNT Hòa Bình năm 2001-2006, với tác phẩm Nơi cất rượu

- Giải A của Hội VHNT Hòa Bình năm 2001-2006, với tác phẩm Mường Trong

Bùi Tuyết Mai làm việc ở Hà Nội, nhưng vẫn dệt vải và làm thơ.

- Mưa trong nhà (thơ Văn hóa dân tộc, 1998)

- Binh Boong (thơ, Lao Động, 2008)

Nhiều thế hệ người Hà Nội biết đến cụ Thiên Tích ở Lĩnh Nam. Sinh thời, cụ là một lương y nổi tiếng về tài năng, đức độ. Lương y Thiên Tích là người có công dịch ra tiếng Việt tác phẩm “Kim quỹ yếu lược” và “Thương hàn luận” - bộ sách về bệnh học và lý luận rất quan trọng về Đông y.

Cụ Thiên Tích nguyên là Chủ tịch Hội Đông y Việt Nam từ năm 1990 đến năm 2001, sau đó được suy tôn là Chủ tịch danh dự. Là một thầy lang theo lối xưa nên cụ thông thạo cả 4 môn Nho, Y, Lý, Số, vừa giỏi y lý vừa uyên bác về Đông y. Cụ tâm niệm “Làm nghề thuốc phải có cái tâm trong sáng, không vụ lợi và hết lòng với người bệnh, việc chăm sóc, cứu chữa cho bệnh nhân là trách nhiệm của người thầy thuốc”.

Sau khi nghỉ hưu năm 1991, cụ được bổ nhiệm giữ chức Chủ tịch Hội Đông y Việt Nam 2 khóa. Đến năm 2001, cụ về nghỉ ngơi và tập trung vào việc chữa bệnh cho người dân ngay tại nhà.

Cách đây vài năm, cụ Thiên Tích đã về cõi vân du, để lại nhiều tiếc thương và cả lòng biết ơn của các thế hệ học trò cũng như những bệnh nhân được cụ chữa trị trong thời gian ở nhân gian.

Người học trò bền bỉ của cụ Thiên Tích

Cụ ra đi nhưng di sản của cụ vẫn được học trò tiếp tục gìn giữ và phát huy. Một trong những người học trò theo cụ lâu nhất và đến nay vẫn tiếp tục làm cái nghề “lấy đức làm lãi” là Việt y Chu Xuân Trường.

Một ngày cuối thu, tôi đến phòng khám Đông y Bảo Quang Đường của Việt y Chu Xuân Trường. Mặc dù khá gần đường Trần Thái Tông, con đường sầm uất nhất nhì quận Cầu Giấy, nhưng bước qua cánh cửa vào phòng khám là một sự tĩnh lặng và trang nghiêm. Trên tủ là bức tượng Hải Thượng Lãn Ông - ông tổ nghề y học cổ truyền Việt Nam. Việt y Chu Xuân Trường cho biết, bức tượng này vốn nằm ở phòng khám thầy Thiên Tích. Từ hồi thầy mất, anh thỉnh bức tượng này để tiếp tục chiêm bái, soi chiếu vào đó để sửa mình hằng ngày, tích thêm Tinh - Khí - Thần bởi con đường y đạo còn rất dài phía trước.

Vừa pha trà, Việt y Chu Xuân Trường vừa kể chuyện. Gốc gác mãi tận Bắc Giang, nhưng anh sinh ra, lớn lên ở làng Vòng - ngôi làng lâu đời với nghề làm cốm ở ngoại thành Hà Nội. Học tới hết phổ thông ở Cầu Giấy, lại không đủ điều kiện đi bộ đội vì mắt cận, sau lần thi trượt Đại học Y Hà Nội, một người chú đã dắt anh tới nhà cụ Thiên Tích học nghề làm thuốc. Nói “nghề làm thuốc” là nói nghĩa đen, bởi những ngày tháng ấy, bên trong trí óc của anh thanh niên 18 tuổi thì khái niệm đi học làm thầy thuốc chưa thực sự rõ ràng. Nhưng cũng từ đây, cuộc đời anh có bước ngoặt quan trọng, khiến cho anh gắn bó với nghề làm thuốc, làm thầy cả đời.

Nhớ lại những ngày ấy, ngày đầu tiên khi anh Trường xuống nhà cụ Thiên Tích, mấy tiếng đồng hồ, cụ cứ để anh ngồi không, cũng không nói năng gì. “Cụ cứ mặc kệ. Mình thì trẻ, cứ nhấp nhổm suốt”, anh cười. Lát sau, trò chuyện một hồi thì cụ Thiên Tích nhận ra trong gia đình anh có một người ông trong họ đã cùng cụ vào Viện Đông y một đợt. Người ông trong họ ấy đã như một bảo chứng tin cậy khi cụ Thiên Tích dặn: “Con cháu nhà ấy thì được rồi”.

Hôm sau tới, việc đầu tiên là cụ Thiên Tích mở giấy bút, ngồi hỏi tuổi tác, lập cho anh lá số tử vi. Đọc xong lá số, cụ bảo “theo nghề được”. Xong xuôi đâu đấy cụ mới quyết định thu nhận anh làm học trò.

3 năm đầu học nghề chỉ tập tô, học thuộc lòng mặt chữ tên các vị thuốc

Học nghề làm thuốc nhưng không phải cứ đến nhà thầy là được sờ tay vào dao cầu, thuyền tán ngay. Đầu tiên, thầy đưa anh lên phố Lãn Ông mua giấy bản, mực Tàu, bút lông để về học viết chữ. Đó cũng là những ngày tháng đầu tiên anh biết thế nào là chữ Hán.

Giấy bản mang về, kê lên một bảng chữ và bắt đầu học… tô chữ. Suốt 3 năm đầu tiên chỉ ngồi tập tô, học thuộc lòng mặt chữ tên các vị thuốc, làm sao cho nhuần nhuyễn. Những ngày, tháng ấy, rèn chữ, cũng là rèn cái nết cẩn thận, chỉn chu - điều rất quan trọng với một người hành y đạo.

Buổi sáng đến nhà thầy học viết, buổi trưa đi chợ nấu cơm, buổi chiều ngồi đọc thuộc lòng mặt chữ, âm tiếng Việt, ý nghĩa của tên thuốc, công dụng của từng vị. Ròng rã như vậy một năm đi lại từ nhà ở làng Vòng tới Lĩnh Nam thì thầy bảo anh: “Thôi, dọn đến đây”. Thế là hành trình một đời theo thầy của anh bắt đầu như vậy.

Mọi ăn uống, sinh hoạt, anh cứ nhìn thầy mà làm. Sáng sáng, 5 giờ, thầy dậy sớm tụng kinh, anh cũng lục tục dọn chăn màn để ngồi sau thầy lắng nghe, cùng tụng niệm. Sau 3 năm học chữ, thầy Thiên Tích cho anh tiền để theo học trường Đông y Tuệ Tĩnh (Thanh Xuân, Hà Nội).

Thầy dặn, nghề thầy thuốc đến đời anh đã khác trước. Xã hội thay đổi, không có bằng cấp thì không được làm. Thế nên, hàng ngày, một buổi anh đến lớp, một buổi vẫn quay về nhà thầy để theo thầy học hành.

Ngày, tháng trường quy cứ thế đi qua, anh thanh niên làng Vòng cũng đến tuổi lấy vợ, sinh con. Rồi như con cái trong nhà, anh đưa cả vợ con về ăn, ở, sinh hoạt để tiện việc học hành và chăm sóc thầy từng bữa ăn, giấc ngủ. Thầy Thiên Tích cũng lấy đó làm hài lòng.

Tích đức, hành thiện theo lời thầy dạy

Đến giờ, điều làm anh thấy sung sướng nhất không chỉ là một đời cắp tráp theo thầy học nghề, đi qua hàng vạn con đường, mang niềm vui và hy vọng cho không biết bao nhiêu gia đình, con người, mà chính là theo thầy để học được cách ăn, ở, cách làm người ở đời.

Một đời làm thuốc, thầy Thiên Tích đã dạy dỗ cho không biết bao nhiêu lứa học trò. Nhưng theo thầy bền bỉ nhất chỉ có anh. Nhân duyên ấy đã làm nên con người Việt y Chu Xuân Trường ngày hôm nay.

Nhắc đến duyên, trong số các trường hợp chữa bệnh của thầy Thiên Tích, anh Trường đặc biệt nhớ trường hợp một bệnh nhân được thầy chữa thành công bệnh hiếm muộn.

Nhiều năm trước, có một người hàng ngày đi qua trước cửa phòng làm việc của thầy để sang gặp vài vị bác sĩ khác. Việc đi lại ấy kéo dài nhiều ngày tháng. Một hôm, cụ Thiên Tích vẫy người bệnh vào hỏi chuyện rồi bắt mạch. Thì ra, người đàn ông ấy đang đi chữa hiếm muộn.

Cụ kê đơn, bốc thuốc rồi dặn dò cẩn thận việc sinh hoạt, ăn uống… Đến đúng thời điểm quan trọng để vợ chồng “sinh hoạt” thì đột nhiên anh chồng phải đi công tác đặc biệt tận trong Tây Nguyên. Người vợ buộc phải làm một hành trình vào với chồng để tuân thủ chỉ định của thầy. Chuyến đi đó đã có kết quả viên mãn. Vợ chồng nhà ấy sinh được 2 người con, lớn lên khỏe mạnh, phương trưởng, thành đạt và trở thành những người có vị trí quan trọng.Chuyện xảy ra cách đây đã hơn 30 năm.

Việt y Chu Xuân Trường trầm ngâm: “Đến giờ, nhớ lại việc ấy, tôi vẫn thấy chữ duyên trong nghề này rất quan trọng”. Nếu không phải là duyên thì sẽ không bao giờ có được sự gặp gỡ tốt lành ấy.

Từ khi thầy bình thản về với tiên tổ trong một giấc ngủ dài, anh trở về làng Vòng. Mấy chục năm không sống ở quê nhà, cảnh vật cũng nhiều đổi thay, những người trẻ lớn lên hầu như không mấy người biết anh, chỉ có các cụ cao niên trong làng khi nhắc đến bố mẹ đẻ anh thì biết và hiểu anh rất rõ.

Từ một anh thanh niên đi học làm thuốc, nay đã là một lương y được nhiều người tin cậy. Việt y Chu Xuân Trường nói, theo thầy mấy chục năm, học nghề thuốc của thầy không chỉ là học theo sách vở, mà với Đông y, còn phải hiểu rõ được các nguyên lý về âm dương, ngũ hành, về cái gốc rễ, căn nguyên của bệnh tật. Mỗi người bệnh lại cần xem xét đầy đủ các yếu tố về thời khí, môi trường sống, về sức khỏe bản thân cũng như cơ năng thích ứng của mỗi người. Từ đó mà ra được thuốc, thang làm sao phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh riêng của từng người. Đó mới là việc khó trong Đông y.

Về làng cũ, ngoài bức tượng Hải Thượng Lãn Ông, anh còn mang theo bài vị của thầy để thờ phụng. Hằng ngày, anh vẫn thăm khám bệnh nhân và dành thì giờ tiếp tục nghiên cứu. Những ngày cuối tuần bớt bận bịu, anh lại cùng gia đình và một số bạn bè tham gia vào một bếp ăn từ thiện dành cho bệnh nhi đang chữa trị ở Viện Huyết học - Truyền máu Trung ương. Đặc biệt, trong những ngày dịch COVID -19 hoành hành, anh cùng những người bạn đã quyên góp tặng nhu yếu phẩm thiết yếu cho người vô gia cư, sinh viên và cả người đi làm bị kẹt lại Hà Nội. Những việc ấy cũng là một cách tích đức, hành thiện, đi theo con đường mà cả đời thầy Thiên Tích đã dạy dỗ anh./.